Khối 8406
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006
Web: http://8406vn.com - http://khoi8406vn.blogspot.com/
Email: vanphong8406@gmail.com
|
Nhận định tổng
kết
về tình hình
Việt Nam
năm 2012
Kính gửi:
‒ Toàn thể
đồng bào Việt Nam
trong và ngoài nước.
‒ Các chính phủ dân chủ, các
tổ chức nhân quyền và cộng đồng thế giới tự do.
Quyền lợi và nghĩa vụ của công dân là lên tiếng để xây dựng
đất nước và canh tân xã hội. Vì thế, trước khi kết thúc năm 2012, một năm có
nhiều biến động lớn lao trên nhiều mặt của quốc gia, Khối 8406 chúng tôi có những nhận định sau đây về tình hình xã hội và
đất nước:
1- Về mặt chính trị,
đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng ra sức củng cố ách độc tài độc đảng để bám lấy
quyền lực, dù mất hết uy tín trước nhân dân. Đang khi thế giới càng lúc
càng đi vào xu hướng toàn cầu hóa về dân chủ, đặc biệt qua các cuộc cách mạng chống
độc tài tại Trung Đông và Bắc Phi năm rồi, qua sự chuyển dần từng bước theo con
đường dân chủ của Myanmar và qua cuộc chiến ác liệt chống chế độ bạo tàn tại
Syria hiện nay; đang khi nhân dân trong nước càng lúc càng đấu tranh mạnh mẽ để
đòi hỏi quyền tự do của con người, quyền tự quyết của dân tộc, quyền toàn vẹn
lãnh thổ của quốc gia, đặc biệt qua nhiều trang mạng và trang blog “lề dân”,
qua nhiều văn bản tập thể của giới trí thức, giới thanh niên và giới đối kháng,
qua nhiều cuộc xuống đường biểu tình yêu nước; thì bất chấp lòng dân và xu
hướng thời đại, đảng CSVN ngày càng ra sức siết chặt ách độc tài đảng trị, ngày
càng tăng cường đàn áp, khủng bố ác liệt tất cả những ai phản đối lối hành
động, phê phán kiểu cai trị và chất vấn quyền lãnh đạo tuyệt đối lẫn toàn diện
của đảng. Cụ thể là qua Tuyên bố của Hội nghị lần 6 của Ban Chấp hành Trung
ương hồi tháng 10, qua kế hoạch sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong đó điều 4 được
đảng khư khư giữ lại, qua tuyên bố mới đây của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhất
quyết không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập và qua chủ trương
thường hằng là dùng công an, quân đội, kể cả các tổ chức đoàn thể của nhà nước
làm công cụ đàn áp nhân dân. Tất cả các động thái đó chứng tỏ đảng CSVN muốn thống
trị đất nước vô thời hạn dù vô tài, bất lực, mất uy tín, và cho thấy việc kêu
gọi toàn dân góp ý sửa đổi Hiến pháp trong những ngày sắp tới chỉ là trò khôi
hài và lừa bịp.
2- Về mặt kinh tế, đảng
Cộng sản Việt Nam
kiên trì khẳng định kinh tế nhà nước là chủ đạo và các công ty tập đoàn nhà
nước là ưu tiên. Cho đến nay, đường lối kinh tế ấy đã dẫn tới tình trạng tổng sản lượng
nội địa (GDP) ngày càng đi xuống, các tổng công ty, đại tập đoàn quốc doanh thi
nhau vỡ nợ, nhiều ngân hàng liên tiếp suy sụp, đồng tiền từ từ mất giá, thị
trường bất động sản càng lúc càng đóng băng, hàng trăm ngàn công ty và doanh
nghiệp tư nhân phải giải thể. Lý do là đảng viên, nhất là cán bộ cấp cao, đã tung
rất nhiều tiền (do tham nhũng mà có) để mở công ty sân sau, mua đất đai nhà
cửa, đầu cơ vào chứng khoán, bất động sản; làm kinh tế chỉ lo trục lợi cho mình
chứ không phải phục vụ đồng bào xã hội, và lợi dụng quyền lực lẫn sự ưu ái của
đảng để giết chết các công ty vừa và nhỏ do tư nhân làm chủ. Tất cả đã khiến
nền kinh tế thị trường gọi là “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” ngày càng đẩy
tuyệt đại đa số nhân dân vào cảnh khốn cùng. Dù vậy, sau Hội nghị Trung ương 6,
đảng tiếp tục duy trì chính sách kinh tế bất công và sai lạc đó, kèm theo việc
ra nghị định về vàng và đôla, nhằm giúp các công ty của đảng viên bù lỗ trả nợ
và tạo điều kiện cho các đảng viên tiếp tục vơ vét làm giàu, bất chấp dân tình
điêu linh khốn khổ, ngõ hầu đảng tiếp tục nắm giữ quyền lực. Ngoài ra, dẫu đã làm
cho nền kinh tế Việt Nam suy thoái, trì trệ suốt bao năm qua, thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng chỉ chịu trách nhiệm “chính trị” trước đảng thay vì trách nhiệm hành
chính (thậm chí hình sự) trước quốc dân.
3- Về mặt pháp chế, đảng
Cộng sản Việt Nam tiếp tục coi các bộ luật và toàn thể hệ thống tòa án là công
cụ bảo vệ quyền lực độc đoán của mình hơn là bảo vệ công lý và sự thật. Nhiều bản văn pháp luật
(liên quan đến tôn giáo, báo chí, đất đai, biểu tình…) được đưa ra hay tu chính
chẳng hề nhắm đến quyền lợi chính đáng của công dân, mà chỉ để củng cố quyền uy
của đảng. Công an điều tra, viện kiểm sát công tố, chánh thẩm và bồi thẩm vẫn nhất
nhất tuân lệnh đảng, vẫn không ngừng câu kết với nhau, đặc biệt trong các phiên
tòa chính trị, để trừng phạt các công dân dám lên tiếng phản đối bất công bạo
hành của người nhà nước, đòi lại các quyền lợi như đất đai, nhà cửa bị cán bộ
đảng viên cướp đoạt, đấu tranh cho các quyền tự do tôn giáo, bầu cử, ngôn luận,
lập hội…, chống lại ngoại bang xâm lấn bằng biểu tình, viết bài, sáng tác nhạc,
rải truyền đơn…. Các luật sư tiếp tục bị ngăn cản tác nghiệp từ nghiên cứu hồ
sơ đến biện hộ trước tòa, các bị cáo tiếp tục bị tước các quyền cơ bản như hỗ
trợ tâm lý, cố vấn pháp luật, bào chữa bản thân, các thân nhân bằng hữu của họ
bị cấm tham dự phiên tòa, thậm chí bị hành hung lăng nhục. Bằng chứng là các
phiên tòa xử 4 sinh viên tại Nghệ An, 3 thành viên Câu lạc bộ Nhà báo tự do và 2
nhạc sĩ yêu nước tại Sài Gòn vừa qua. Nhiều tù nhân lương tâm tiếp tục bị hành
xử khắc nghiệt (cưỡng bức tâm lý, tra khảo đánh đập, không chăm sóc y tế đầy đủ…)
hòng buộc họ phải nhận tội, hầu lường gạt công luận rằng luật pháp và án xử nhà
nước là chính đáng, như trong trường hợp bà Mai Thị Dung, ông Nguyễn Xuân
Nghĩa, anh Đoàn Huy Chương…
4- Về mặt dân sinh, đảng
Cộng sản Việt Nam
không từ bỏ chính sách “đất đai thuộc về toàn dân do nhà nước đại diện sở hữu”. Từ hơn 20 năm qua, chủ trương bất công trắng trợn và hết sức phi
lý này, quan niệm hư ảo và lừa bịp này -được dùng làm cốt tủy cho Luật đất đai-
đã tước bỏ quyền tư hữu ruộng đất mà lịch sử và nhân loại hàng nghìn năm nay xác
nhận là chính đáng. Chính sách đó đã mở đường cho các quan chức, cán bộ, đảng
viên địa phương cướp trắng gia sản tổ tiên, công sức xương máu của hàng chục
triệu nông dân và thị dân qua chiêu bài “quy hoạch phát triển”. Nó đã đẩy hàng
triệu gia đình vào đường cùng, lâm cảnh vô nghề vô nghiệp, dở sống dở chết. Nó
khiến nhân dân lo âu hồi hộp tại nơi đang sống, và nông dân không chí thú làm
ăn, chẳng buồn làm cho đất đai thêm màu mỡ. Hội nghị Trung ương 6 và Dự thảo Luật
đất đai sửa đổi vẫn ngoan cố bám giữ chính sách sai lầm đó và duy trì tình
trạng thê thảm này của dân oan.
Ngoài ra, việc trung ương đảng quyết tâm đeo đuổi dự án
khai thác bauxite tại Tây Nguyên dù rõ ràng có nguy cơ cho quốc phòng an ninh
lẫn tàn phá môi trường, quyết tâm xây dựng nhà máy điện nguyên tử tại Ninh
Thuận, dù rõ ràng có nguy cơ làm suy kiệt công khố và gây thảm họa hạt nhân,
cũng như việc nhiều địa phương, đặc biệt tại miền Trung, xây dựng các đập thủy
điện cách bừa bãi, ẩu tả (như tại Sông Tranh 2, Dak Rông, Dak Mek) và quản lý
các đập thủy điện cách vô trách nhiệm (gây lũ lụt lẫn hạn hán), tất cả những sự
kiện ấy đó đã làm cho dân sinh ngày càng đầy lo âu và khốn khổ.
5- Về mặt tôn giáo, đảng
Cộng sản Việt Nam trước sau như một, vẫn nuôi ý đồ biến các Giáo hội thành công
cụ phục vụ chế độ. Sau bao nhiêu năm thất bại trong việc tiêu diệt tôn giáo bằng bạo lực
vũ khí, Cộng sản đã chuyển sang phương pháp bạo lực hành chánh bằng Pháp lệnh
tôn giáo tín ngưỡng năm 2004. Để lừa gạt công luận trong và ngoài nước, CS chỉ
thí ban các thứ tự do tôn giáo phụ tùy như tổ chức lễ hội, xây dựng điện thờ,
cho chức sắc ra ngoại quốc (nhưng chỉ đối với những ai và những nơi không có
vấn đề với chế độ). Còn những thứ tự do tôn giáo chủ yếu và đích thật như quyền
có quy chế pháp nhân, quyền độc lập trong tổ chức, tự do trong sinh hoạt, quyền
rao giảng giáo lý cho quần chúng và tham gia việc giáo dục giới trẻ thì không có
trên lý thuyết lẫn thực tế. Trên lý thuyết, nhà cầm quyền CS vừa ban hành Nghị
định 92 thay thế Nghị định 22 năm 2005 để áp dụng Pháp lệnh tín ngưỡng tôn
giáo. Chi tiết hơn, thâm độc hơn, Nghị định 92 này như một sợi dây thòng lọng
ngày càng siết cổ tôn giáo để biến các Giáo hội hoặc thành những cơ thể thiếu
máu hoặc thành những công cụ ngoan ngoãn. Trong thực tế, các cuộc đàn áp vẫn
tiếp tục xảy ra cho mọi Giáo hội. Công giáo thì tại Kontum, Thanh Hóa và Nghệ
An, nơi có những nhà thờ bị chiếm đoạt, bị phá hoại, những nghĩa trang bị xúc
phạm, những linh mục bị hành hung, những giáo dân bị cầm tù. Phật giáo Hòa Hảo
thì nhiều tín đồ bị cầm tù oan ức hay bị hành hạ trong ngục, giáo lý và giáo
chủ bị lăng nhục phỉ báng. Phật giáo Thống Nhất thì nhiều chùa chiền bị cấm cửa
đối với tín đồ, bị đe dọa xóa bỏ, nhiều tăng sĩ bị quản chế, bị cản trở tu trì,
hoằng pháp hay hành thiện, nhiều lễ hội bị gây rối, cản trở. Tin Lành thì nhiều
mục sư và tín đồ bị cầm tù, nhiều Hội thánh bị sách nhiễu cấm cản trong sinh
hoạt v.v…
6- Về mặt đối ngoại, đảng
Cộng sản Việt Nam càng lúc càng lộ nguyên hình là tay sai của đảng Cộng sản
Trung Quốc và là “thái thú” của chúng trên đất Việt. Vốn đã lệ thuộc Tàu cộng một
cách chặt chẽ từ thời Hồ Chí Minh, tái lệ thuộc một cách ô nhục thời Đỗ Mười
(hội nghị Thành Đô 1990), nay đảng CSVN ngày càng lệ thuộc Tàu cộng kiểu sinh
tử qua những nhượng bộ trong việc ký kết các hiệp định về lãnh thổ và lãnh hải,
qua những yếu hèn trong việc để cho Tàu cộng xâm nhập nội bộ, chính trị, lãnh
thổ, văn hóa, thương mại, qua những suy sụp về kinh tế tài chánh do điều hành
đất nước cách ngu xuẩn và tham tàn đến độ phải nhờ Tàu cộng ra tay cứu trợ. Từ
mấy năm nay, sự lệ thuộc kiểu chủ tớ đó ngày rõ nét qua sự kiện đảng luôn mồm
tụng niệm “l6 chữ vàng”, “4 chữ tốt”, luôn thay nhau qua Bắc Kinh để triều
kiến, nhận chỉ thị, luôn ra lệnh cho các bộ, các cơ quan nhà nước giao lưu, hợp
tác toàn diện với Trung Quốc; qua việc đảng luôn bỏ mặc nhân dân trên đất liền
bị xua đuổi khỏi những vùng đất nhượng cho Trung Quốc (rừng phòng hộ biên giới
phía Bắc, khu khai thác bauxite Tây Nguyên, phố Tàu Bình Dương, Hà Tĩnh, hải
cảng Vũng Áng…), hoặc bỏ mặc ngư dân trên biển cả cho tàu dân sự lẫn tàu quân
sự của Trung Quốc cấm cản, cướp bóc, bắn giết; qua sự kiện đảng hạn chế hoặc
cấm tiệt việc nghiên cứu và phổ biến về chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa, việc
tưởng niệm các chiến sĩ bỏ mình khi bảo vệ biên giới và hải đảo, việc xuống
đường biểu tình, sáng tác ca khúc hay rải truyền đơn viết biểu ngữ của nhân dân
cả nước chống quân xâm lược. Gần đây hơn là việc đảng tăng cường các loa miệng
và loa đài nhằm “giáo dục” nhân dân về “lòng biết ơn, tình hữu nghị” đối với
Trung Quốc và nhằm ru ngủ nhân dân hãy “để đảng và nhà nước lo chuyện bang giao”
với cái nước lớn luôn nuôi mộng thôn tính VN này.
Đàng khác, cũng trên mặt đối ngoại, đảng CSVN đang tăng
cường việc gởi viên chức ra nước ngoài,
đến các cộng đồng người Việt tỵ nạn khắp thế giới, một đàng để chiêu dụ đầu tư
vào nước, kêu mời đóng góp xây dựng quê hương (thực chất là để cứu nguy chế độ
đang cạn kiệt tiền bạc), một đàng để “đối thoại” với các cá nhân và tổ chức
tranh đấu, hứa hẹn cho “tham gia” vào Quốc hội, tìm “con đường hòa giải hòa
hợp” (thực chất là để triệt tiêu tinh thần chống độc tài toàn trị Cộng sản,
lũng đoạn phân hóa các lực lượng dân chủ hải ngoại).
Tóm tắt lại, ĐCSVN đã mất uy tín rất trầm trọng, đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nội
bộ sâu sắc. Một là do bế tắc về đường lối: bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin thì sợ, giữ nó thì ngày càng lố bịch khôi hài, bỏ tư tưởng
HCM thì chẳng còn chỗ dựa tinh thần để lừa bịp, ru ngủ quần chúng nữa; hai là do sự tha hóa
trầm trọng, nạn tham nhũng tràn lan của cán bộ từ thấp lên cao; ba là do sự đấu đá nội bộ, bè phái xâu
xé nhau từ thượng tầng đến cơ sở.
Cho nên để cứu đảng chỉ còn 3 cách. Một là tăng cường đàn
áp rất dã man, rất côn đồ; từ trước đến nay chưa hề có những hành động man rợ
và độc ác như vậy, các bản án bây giờ hết sức nặng cốt để đe dọa quần chúng và giam
chân những chiến sĩ dân chủ có khả năng lãnh đạo phong trào; hai là tìm cách luật hóa hết sức có thể vai trò lãnh đạo độc nhất và các
đường lối cai trị độc tài của đảng trên các phương diện chính trị, kinh tế, dân
sinh, tôn giáo, xã hội… ngõ hầu nhân dân không thể chống lại mà không phạm
pháp; ba là ra sức lừa bịp
dân chúng và quốc tế bằng
đủ trò gian trá mỵ dân và bằng đủ mọi phương tiện. Nhưng việc lừa bịp này càng ngày càng khó, vì thế
giới hôm nay khác hẳn rồi, internet hiện giúp cho phe dân chủ dễ vạch trần âm
mưu phỉnh phờ của Cộng sản!
Từ những nhận định trên, Khối 8406 chúng tôi tuyên bố:
1- Kiên định đường lối của Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho
Việt Nam 2006: giải thể chế độc độc tài độc đảng để xây dựng chế độ đa nguyên
đa đảng, dân chủ tự do.
2- Phản đối nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, lấy công ty quốc doanh làm chủ đạo, vì đó chỉ là cách đảng và đảng
viên làm giàu trên sự bóc lột nhân dân và tàn phá đất nước.
3- Lên án những bộ luật và những phiên tòa trong đó đảng chà
đạp các nhân quyền chủ yếu, các tự do cơ bản của con người, trấn áp những công
dân chân thành yêu nước và thực tâm xây dựng.
4- Kêu gọi đảng và nhà nước trả lại quyền sở hữu đất đai
cho các tập thể và tư nhân cũng như từ bỏ những dự án khai thác bauxite và xây
dựng nhà máy điện nguyên tử đầy hiểm họa cho dân sinh.
5- Yêu cầu đảng và nhà nước tôn trọng tự do tôn giáo dưới
mọi hình thức, để cho các Giáo hội được góp phần giáo dục lương tâm, giải độc
văn hóa, tăng cường đạo đức xã hội để canh tân Đất nước.
6- Đòi hỏi đảng và nhà nước bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự
toàn vẹn lãnh thổ một cách đích thực, cương quyết, can đảm và hữu hiệu, trong
sự chung vai sát cánh và đồng tâm hiệp lực với toàn thể nhân dân.
7- Chỉ chấp nhận đối thoại với đảng CS khi nào đảng từ bỏ
độc quyền cai trị, trả tự do cho các tù nhân lương tâm, sám hối trước quốc dân
về những sai lầm và tội ác quá khứ, khôi phục các quyền tự do cho công dân và
quyền tự quyết cho Dân tộc.
Làm tại Việt Nam ngày 31
tháng 12 năm 2012.
Ban điều hành Khối 8406:
1- Linh mục Phan Văn Lợi – Huế – Việt Nam.
2- Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Sài Gòn – Việt Nam.
3- Giáo sư
Nguyễn Chính Kết – Houston – Hoa Kỳ.
4- Bà Lư Thị Thu
Duyên – Boston
– Hoa Kỳ.
Với sự hiệp thông của Linh
mục Nguyễn Văn Lý, cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và
nhiều tù nhân chính trị, tôn giáo khác đang ở trong lao tù Cộng sản.